gắn bó hay gắng bó

Con có biết gắn bó với một người nghĩa là gì không?— * Nghĩa là con sẽ luôn luôn vâng lời người đó. Chúng ta muốn nói về người mà Kinh Thánh miêu tả là "tríu-mến" hay gắn bó với Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời thật. Người ấy tên là Ê-xê-chia. Chương 61: Gắn bó tương ôi Chương trước Chương tiếp Tề Nhạc ở trong phòng tắm tắm rửa, Tề Chương canh giữ ở bên ngoài, hắn muốn vào chà lưng cho Tề Nhạc nhưng cậu đỏ mặt sống chết không đồng ý, Tề Chương chỉ có thể đứng ngoài cửa nói chuyện với cậu. Trẻ trâu. 18/9/22. #62. T cũng làm xd. Quan điểm của t là rõ ràng. Chớm nợ nghỉ luôn, kể cả là 1 tháng. Công ty không lo đc lương cho người lao động thì làm gì có cơ gì để làm ăn mà theo. Thằng đéo nào cũng đi làm vì tiền hết nên đừng có bảo cố ở lại bám trụ này kia. Gắn bó với Chúa từng giây phút. Thứ Ba tuần 34 thường niên. "Không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào". Lời Chúa: Lc 21, 5-11. Khi ấy, có mấy người trầm trồ về đền thờ được trang hoàng bằng đá tốt và những lễ vật quý, nên Chúa Giêsu phán rằng: "Những gì các con Văn mẫu và dàn ý hay tả lại ngôi trường đã gắn bó với em trong năm học qua là tài liệu hữu ích, giúp các em triển khai làm bài, rèn luyện được kỹ năng viết bài văn miêu tả dễ dàng, Thông qua các bài viết này, chắc chắn việc viết văn của các em sẽ trở nên dễ hơn, dành điểm cao cho môn tiếng Việt này Mann Sagt Immer Wieder Treffen Ab. Sự gắn bó với ai đó có tác động rất lớn đến sức khỏe tinh thần và thể chất của một người. Đôi khi, tình cảm gắn bó có thể xây dựng nên các mối quan hệ lành mạnh, từ đó giúp bạn cảm thấy thoải mái và yên tâm hơn khi ở cạnh họ. Sự gắn bó với ai đó là cảm giác gần gũi và tình cảm, giúp bạn duy trì các mối quan hệ có ý nghĩa lâu dài theo thời gian. Sự gắn bó cũng đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với những kết nối của con liên hệ gắn bó đầu tiên được hình thành giữa bạn và cha mẹ, cũng như những thành viên khác trong gia đình. Sau đó, sự gắn bó phát triển theo thời gian giữa bạn và bạn bè hoặc người bạn đời lãng mạn sau này trong cuộc mối quan hệ lành mạnh được xây dựng dựa trên sự gắn bó về mặt tình cảm giữa người với người ngay cả khi không có bất kỳ sự hấp dẫn lãng mạn hoặc tình dục nào can thiệp. Thực tế, sự gắn bó với ai đó có thể đem lại cảm giác an toàn, vui vẻ, thoải mái và thậm chí là hưng phấn cho bạn khi ở cạnh vì vậy, theo các chuyên gia cho biết tình yêu và sự gắn bó không hoàn toàn giống nhau. Một tình yêu lâu dài dựa trên sự gắn bó lành mạnh để nảy nở theo thời gian. Tuy nhiên, nếu không có sự ràng buộc, đôi khi bạn có thể cảm thấy bị thôi thúc tìm kiếm một người bạn tình mới khi cảm xúc yêu đương mãnh liệt đầu tiên đã phai – một loại hormone giúp thúc đẩy sự gắn bó và tin tưởng, góp phần tạo tiền đề phát triển nên những tình cảm lâu dài giữa con người với nhau. Nói một cách khác, loại hormone này giúp thúc đẩy bạn vượt qua những giai đoạn đầu tiên của sự hấp dẫn và ham muốn, sau đó tiến vào các mối quan hệ lành tình yêu, có nhiều hormone tham gia vào sự kích thích trong giai đoạn đầu của một mối tình lãng mạn, góp phần tạo ra ham muốn, sự hưng phấn hoặc căng thẳng mà hầu hết bất kỳ ai cũng đều trải qua khi yêu. Cường độ của những cảm xúc này thường mất dần theo thời gian, tuy nhiên sự gắn bó với ai đó vẫn còn tồn tại, giúp bạn cảm thấy yên tâm, an toàn và thúc đẩy cảm giác yêu lâu bền. Các mối quan hệ lành mạnh được xây dựng dựa trên sự gắn bó về mặt tình cảm giữa người với người 2. Sự gắn bó có tác động như thế nào đối với sức khỏe con người? Theo nhiều nghiên cứu cho biết, tình cảm gắn bó có thể giúp tăng cường sức khoẻ của con người. Sự gắn bó có ảnh hưởng tích cực đến sức khỏe tinh thần và thể chất nếu nó giúp bạn xây dựng nên các mối quan hệ lành cảm gắn bó giữa người thân, bạn bè hoặc người yêu có thể giúp bạn cảm thấy thoải mái, an tâm hơn, từ đó ngăn ngừa các tình trạng như trầm cảm hoặc chứng lo âu. Ngoài ra, sự gắn bó với ai đó lâu dài cũng góp phần thúc đẩy những cảm xúc tích cực, giúp bạn hướng tới những thói quen tốt trong cuộc sống và tiết ra hormone hạnh dựng các mối quan hệ lành mạnh dựa trên tình gắn bó có thể giúp bạn hình thành những thói quen tốt như tập thể dục thường xuyên, ăn uống điều độ, ít lạm dụng chất kích thích. Điều này cũng giúp ngăn ngừa đáng kể những nguy cơ mắc các bệnh mãn tính như tim mạch, tiểu đường loại 2, béo phì hoặc huyết áp cao. 3. Khi nào cảm giác gắn bó trở nên độc hại? Tình cảm gắn bó đôi khi có thể trở nên quá mạnh liệt và phụ thuộc nhiều hơn vào cảm xúc. Sự phụ thuộc này có thể ảnh hưởng tiêu cực đến các mối quan hệ và niềm hạnh phúc của đây là những dấu hiệu cảnh báo mức độ gắn bó của bạn đang trở nên độc hại hoặc không lành mạnhBạn hoàn toàn dựa vào sự chấp thuận của đối phươngNếu bạn đấu tranh với việc khẳng định bản thân và sự tự tin, bạn có thể nhìn nhận giá trị của mình thông qua quan điểm của người khác. Trong một mối quan hệ ràng buộc không lành mạnh, cảm nhận về giá trị bản thân của bạn có thể phụ thuộc hoàn toàn vào đối bạn không đồng tình hoặc xảy ra xung đột, điều này có thể phá vỡ nhận thức của bạn về bản thân. Bạn có thể tin rằng đối phương ghét bỏ mình và không còn đáp ứng những nhu cầu tình cảm của bạn. Kết quả, bạn chính là người bị tổn thương, cảm thấy trống rỗng, lo lắng, chán nản và thậm chí bị hạ thấp lòng tự cảm xúc tiêu cực này sẽ tồn tại cho đến khi đối phương thực hiện một hành động nào đó để chứng tỏ họ vẫn quan tâm đến bạn, chẳng hạn như tặng quà, hoặc khen ngợi,... Điều này có thể trở thành một động thái nguy hiểm, vì những người độc hại có thể mượn cớ để lạm dụng, cố tình thao túng nhu cầu và cảm xúc của bạn để kiểm soát mối quan hệ, từ đó khiến bạn bị phụ thuộc vào đã đánh mất ý thức về bản thânKhi bạn tin rằng mình cần gắn bó với ai đó và không thể sống thiếu họ, bản thân bạn sẽ làm bất cứ điều gì cần thiết để có thể đảm bảo tình cảm cũng như sự ủng hộ lâu dài của họ. Từng chút một, bạn sẽ trở nên bắt đầu sửa đổi những thói quen, hành vi và sở thích của mình cho đến khi chúng phù hợp với đối nhiên, kết quả cuối cùng không như bạn mong muốn. Mối quan hệ mà bạn mong chờ có thể trở nên không lành mạnh, thậm chí khiến chính bạn không còn nhận ra bản thân mình thực sự là ai. Do đó, sự duy trì sở thích riêng của bạn cũng quan trọng không kém so với việc chia sẻ với bạn bè để xây dựng các mối quan hệ lành không biết phải làm như thế nào nếu không có đối phươngPhụ thuộc vào người khác để đáp ứng nhu cầu của mình thường khiến bạn gặp khó khăn hơn trong cuộc sống. Đôi khi, sự gắn bó với ai đó có thể phát triển nhờ vào lý do bản thân không cảm thấy an toàn, được chấp nhận hoặc được yêu thương, chúng ta thường có xu hướng tìm đến một người có thể mang lại sự thoải mái, yên tâm và giúp mình bớt cô đơn. Tuy nhiên, phụ thuộc quá nhiều vào sự hỗ trợ tinh thần từ người khác có thể khiến bạn không biết phải làm như thế nào nếu không có đối sợ mất họ của bạn có thể trở nên mạnh mẽ đến mức thể hiện ra những hành vi sai trái, chẳng hạn như đào sâu quá khứ của họ hoặc tiếp tục theo dõi những hoạt động thường ngày của đối phương trên mạng xã quan hệ không cân bằngCác mối quan hệ lành mạnh cần đảm bảo sự cân bằng và độc lập. Những mối quan hệ độc lập thường chỉ liên hệ giúp đỡ khi gặp khó khăn thực sự, nhưng những mối quan hệ phụ thuộc có xu hướng luôn yêu cầu sự giúp đỡ thay vì cố gắng giải quyết vấn đề một một mối quan hệ không cân bằng, một người thường tìm đến người khác để được hỗ trợ về mặt tinh thần, tuy nhiên họ thường không được đáp lại nhiều. Nếu đối phương liên tục cung cấp sự hỗ trợ nhưng không nhận được những gì họ cần, họ sẽ trở nên bực bội và kiệt sức. Tình cảm gắn bó có thể giúp tăng cường sức khoẻ của con người 4. Làm thế nào để phá vỡ tình cảm gắn bó với ai đó? Nếu bạn cho rằng sự gắn bó với ai đó là kém lành mạnh, bạn có thể tự mình thực hiện một số phương án để giải quyết vấn đề tiên, bạn cần xem xét những lý do tiềm ẩn đằng sau mối quan hệ gắn bó của bạn, chẳng hạn nhưBạn sợ ở một mình. Bạn cảm thấy bất an và trống rỗng khi không ở trong một mối quan có ý thức mơ hồ về bản bạn đã xác định được những tác nhân cơ bản này, tiếp theo hãy bắt đầu thực hiện các giải pháp sauDành thời gian để khám phá bản thân, giúp bạn kết nối lại với bản sắc cá nhân của thời gian để làm những việc mà bạn yêu thích, giúp khoảng thời gian ở một mình trở nên bổ ích hơn thay vì sợ cô việc để xây dựng và củng cố các mối quan hệ lành mạnh với người thân và bạn bè, giúp bạn cảm thấy yên tâm trường hợp khó tự giải quyết, bạn có thể tìm đến sự hỗ trợ từ chuyên gia sức khỏe tâm thần. Đối với hình thức trị liệu, bạn có thể học các kỹ năng giúp mối quan hệ trở nên lành mạnh hơn, tìm hiểu và có ý thức mạnh mẽ hơn về bản thân, khám phá các chiến lược giúp đáp ứng nhu cầu riêng của bạn. Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng. Nguồn tham khảo XEM THÊM 10 cách tự nhiên để tăng"hormone hạnh phúc" dopamine 12 chất bổ sung Dopamine để tăng cường tâm trạng của bạn Người độc hại Dấu hiệu cần biết Tổng hợp và giới thiệu 07 học thuyết gắn bó đáng chú ý 1. Học thuyết gắn bó của John Bowlby. John Bowlby and Attachment Theory Gắn bó là gì? What is Attachment? Gắn bó là một dạng quan hệ cảm xúc đặc biệt có liên quan đến sự trao đổi qua lại các cảm giác an ủi, chăm sóc và sự hài lòng. Nghiên cứu về sự gắn bó bắt rễ từ các học thuyết của Freud về tình yêu, nhưng Freud thường không được xem là cha đẻ của thuyết gắn bó mà là một người khác. Attachment is a special emotional relationship that involves an exchange of comfort, care, and pleasure. The roots of research on attachment began with Freud’s theories about love, but another researcher is usually credited as the father of attachment theory. Nguồn Essential Baby John Bowlby đã tiến hành nghiên cứu trên phạm vi rộng về sự gắn bó, mô tả nó là “một sự kết nối tâm lý mang tính kéo dài giữa người với người.” Cũng theo góc nhìn của ông trong phân tâm học, các trải nghiệm đầu tiên từ thời thơ ấu là rất quan trọng, ảnh hưởng lên sự phát triển và quyết định các hành vi của con người sau này. Các kiểu gắn bó ban sơ thường được thiết lập trong thời thơ ấu qua mối quan hệ giữa các bé và người chăm dưỡng. John Bowlby devoted extensive research to the concept of attachment, describing it as a “lasting psychological connectedness between human beings.” Bowlby shared the psychoanalytic view that early experiences in childhood are important with influencing development and behavior later in life. Our early attachment styles are established in childhood through the infant/caregiver relationship. Thêm nữa, Bowlby cũng tin rằng sự gắn bó chịu tác động từ yếu tố tiến hóa; sự gắn bó giúp ta sinh tồn. “Thiên hướng tạo dựng các mối gắn kết cảm xúc mạnh mẽ đối với một cá nhân cụ thể nào đó là một phần cơ bản trong bản năng con người.” In addition to this, Bowlby believed that attachment had an evolutionary component; it aids in survival. “The propensity to make strong emotional bonds to particular individuals [is] a basic component of human nature”. Đặc tính của sự gắn bó. Characteristics of Attachment Bowlby cho rằng sự gắn bó có 4 đặc tính Bowlby believed that there are four distinguishing characteristics of attachment – Duy trì tiếp xúc gần gũi – Mong muốn được ở gần người ta gắn bó. Proximity Maintenance – The desire to be near the people we are attached to. – Trú ẩn an toàn – Quay trở lại với người gắn bó để cảm thấy được an ủi và an toàn khi cảm thấy sợ hãi hoặc bị đe dọa. Safe Haven – Returning to the attachment figure for comfort and safety in the face of a fear or threat. – Căn cứ đảm bảo – Người gắn bó đóng vai trò là một căn cứ an toàn mà từ đó trẻ có thể đi ra khám phá môi trường xung quanh. Secure Base – The attachment figure acts as a base of security from which the child can explore the surrounding environment. – Đau buồn khi bị chia tách – Lo âu đau buồn xuất hiện khi vắng mặt người gắn bó. Separation Distress – Anxiety that occurs in the absence of the attachment figure. Bowlby đưa ra 3 quan điểm mấu chốt về thuyết gắn bó. Một, ông cho rằng khi đứa trẻ lớn lên với sự tự tin rằng người chăm sóc thân cận nhất sẽ luôn có ở bên khi chúng cần, trẻ sẽ bớt trải qua các cảm giác sợ hãi hơn những trẻ lớn lên mà không có sự tin tưởng đó. Hai, ông cho rằng sự tự tin này được rèn luyện trong suốt một giai đoạn nào đó trong quá trình phát triển, có thể là những năm tháng sơ sinh, thời thơ bé, thời niên thiếu, và rằng các mong đợi được hình thành trong suốt quãng thời gian đó có xu hướng cố định, hầu như không đổi trong suốt quãng đời còn lại. Cuối cùng, ông cho rằng những mong đợi này được hình thành và trực tiếp gắn kết với các trải nghiệm sống. Nói cách khác, trẻ sẽ dần hình thành các mong đợi rằng người chăm sóc sẽ đáp ứng các nhu cầu của chúng bây giờ và trong tương lai vì họ đã từng làm vậy trong quá khứ. Bowlby made three key propositions about attachment theory. First, he suggested that when children are raised with confidence that their primary caregiver will be available to them, they are less likely to experience fear than those who are raised without such conviction. Secondly, he believed that this confidence is forged during a critical period of development, during the years of infancy, childhood, and adolescence, and that the expectations that are formed during that period tend to remain relatively unchanged for the rest of the person’s life. Finally, he suggested that these expectations that are formed are directly tied to the experience. In other words, children develop expectations that their caregivers will be responsive to their needs because, in their experience, their caregivers have been responsive in the past. 2. Đánh giá “Tình huống kỳ lạ” của Ainsworth. Ainsworth’s “Strange Situation” Trong suốt những năm 1970, nhà tâm lý học Mary Ainsworth đã mở rộng nghiên cứu lịch sử của Bowlby trong nghiên cứu của bà về “Tình huống kỳ lạ” được nhiều người biết đến ngày nay. Nghiên cứu tập trung quan sát trẻ trong độ tuổi từ 12 đến 18 tháng phản ứng lại tình huống khi chúng bị bỏ một mình trong thời gian ngắn và sau đó được gặp lại mẹ của mình. During the 1970’s, psychologist Mary Ainsworth further expanded upon Bowlby’s groundbreaking work in her now-famous “Strange Situation” study. The study involved observing children between the ages of 12 to 18 months responding to a situation in which they were briefly left alone and then reunited with their mother. Dựa trên những quan sát này, Ainsworth kết luận rằng có 3 dạng gắn bó lớn Gắn bó an toàn, gắn bó bất an nước đôi và gắn bó bất an né tránh. Hai nhà nghiên cứu Solomon và Main đã thêm vào dạng thứ 4 có tên gọi Gắn bó bất an hỗn độn. Các nghiên cứu khác cũng ủng hộ các kết luận của Ainsworth và nhiều người cũng đồng ý rằng những dạng gắn bó sơ khai từ thời thơ ấu sẽ ảnh hưởng và giúp dự đoán các hành vi sau này khi trưởng thành. Based on these observations, Ainsworth concluded that there were three major styles of attachment secure attachment, ambivalent insecure attachment, and avoidant insecure attachment. Researchers Main and Solomon added a fourth attachment style known as disorganized-insecure attachment. Numerous studies have supported Ainsworth’s conclusions and additional research has revealed that these early attachment styles can help predict behaviors later in life. 3. Gắn kết suốt đời. Attachment Through Life. Trước khi bạn bắt đầu đổ lỗi cho cha mẹ vì những vấn đề trong mối quan hệ giữa 2 bên thì bạn cần lưu ý rằng các kiểu gắn bó từ thời thơ ấu không hẳn sẽ giống với những kiểu gắn bó tình cảm lúc trưởng thành. Khoảng thời gian giũa thời bé và lúc trưởng thành là quá dài, nên các trải nghiệm mang tính can thiệp cũng đóng một vai trò lớn trong việc hình thành kiểu gắn kết ở tuổi trưởng thành. Những kiểu gắn bó được xem là lẫn lộn hay né tránh lúc nhỏ có thể trở thành kiểu gắn bó an toàn đối với người lớn, trong khi có người có dạng gắn bó an toàn thời nhỏ có thể cảm thấy kiều gắn bó này trở nên bất an khi trưởng thành. Tính khí cũng được xem là một yếu tố cần xem xét khi nghiên cứu về sự gắn bó. Before you start blaming relationship problems on your parents, it is important to note that attachment styles formed in infancy are not necessarily identical to those demonstrated in adult romantic attachment. A great deal of time has elapsed between infancy and adulthood, so intervening experiences also play a large role in adult attachment styles. Those described as ambivalent or avoidant in infancy can become securely attached as adults, while those with a secure attachment in childhood can show insecure attachment styles in adulthood. Basic temperament is also thought to play a partial role in attachment. Trong một nghiên cứu, Hazen và Shaver đã phát hiện ra rằng cha mẹ ly hôn dường như không có can hệ gì nhiều đến dạng thức gắn bó. Thay vào đó, nghiên cứu của họ chỉ ra rằng dự báo tốt nhất về dạng gắn bó ở người trưởng thành là những nhận thức người ta có được về chất lượng của những mối quan hệ của họ với cha mẹ cũng như giữa cha mẹ với nhau. In one study, Hazen and Shaver found that parental divorce seemed unrelated to attachment style. Instead, their research indicated that the best predictor of adult attachment style was the perceptions that people have about the quality of their relationships with their parents as well as their parent’s relationship with each other. Tuy nhiên, các nghiên cứu cũng nhấn mạnh rằng những dạng thức hình thành từ thời thơ ấu có một tác động quan trọng lên các mối quan hệ về sau. Hazen và Shaver cũng phát hiện ra nhiều niềm tin trong các mối quan hệ với người khác cũng thay đổi cùng với sự biến hóa của các dạng gắn bó. Những người trưởng thành nhóm gắn bó an toàn thường tin rằng tình yêu là thứ vững bền lâu dài. Những người trưởng thành trong nhóm gắn bó nước đôi sẽ có xu hướng phải lòng người khác thường xuyên hơn, và những người trong nhóm gắn bó tránh né lại cho rằng tình yêu là thứ hiếm hoi và chỉ mang tính nhất thời. But research in this area does indicate that patterns established in childhood have an important impact on later relationships. Researchers Hazen and Shaver also found varied beliefs about relationships amongst adults with differing attachment styles. Securely attached adults tend to believe that romantic love is enduring. Ambivalently attached adults report falling in love often, while those with avoidant attachment styles describe love as rare and temporary. Mặc dù vẫn chưa thể nói rằng các kiểu gắn bó ở trẻ nhỏ giống như các kiểu gắn bó ở người lớn, nhưng các nghiên cứu đã chỉ ra ràng các dạng thức gắn bó thời thơ ấu có thể giúp dự đoán các kiểu hành vi của con người sau này. While we cannot say that infant attachment styles are identical to adult romantic attachment styles, research has shown that early attachment styles can help predict patterns of behavior in adulthood. 4. Gắn bó an toàn. Secure Attachment Đặc tính của Gắn bó an toàn. Characteristics of Secure Attachment Những đứa trẻ thuộc nhóm gắn bó an toàn nhìn chung sẽ dễ dàng buồn bã ra mặt khi người chăm sóc rời đi, và vui vẻ trông thấy khi họ quay lại. Khi hoảng sợ, những đứa trẻ này sẽ tìm kiếm sự an ủi, che chở từ cha mẹ hoặc người chăm sóc mình. Tiếp xúc lần đầu với cha mẹ sẽ dần được đứa trẻ có gắn bó an toàn chấp nhận và chúng chào đón sự quay trở lại của cha mẹ với các hành vi tích cực. Mặc dù những đứa trẻ này có thể được an ủi từ những người khác ở một mức độ nào đó khi cha mẹ hay người chăm sóc vắng mặt nhưng chúng rõ ràng vẫn thích cha mẹ và người chăm sóc của chúng hơn. Children who are securely attached generally become visibly upset when their caregivers leave, and are happy when their parents return. When frightened, these children will seek comfort from the parent or caregiver. Contact initiated by a parent is readily accepted by securely attached children and they greet the return of a parent with positive behavior. While these children can be comforted to some extent by other people in the absence of a parent or caregiver, they clearly prefer parents to strangers. Cha mẹ của những trẻ gắn bó an toàn thường chơi với trẻ nhiều hơn. Thêm vào đó, những cha mẹ này đáp ứng các nhu cầu từ trẻ nhanh chóng và với tần xuất cao hơn cha mẹ của những trẻ có gắn bó bất an. Các nghiên cứu chỉ ra rằng trẻ gắn bó an toàn thường có sự đồng cảm nhiều hơn trong những giai đoạn về sau của thời thơ ấu. Chúng cũng ít phá hoại, ít hung hăng và trưởng thành hơn so với những đứa trẻ có gắn bó nước đôi hay gắn bó tránh né. Parents of securely attached children tend to play more with their children. Additionally, these parents react more quickly to their children’s needs and are generally more responsive to their children than the parents of insecurely attached children. Studies have shown that securely attached children are more empathetic during later stages of childhood. These children are also described as less disruptive, less aggressive, and more mature than children with ambivalent or avoidant attachment styles. Mặc dù hình thành một gắn bó an toàn với người chăm sóc là chuyện bình thường và có thể dự đoán được, nhưng theo Hazen và Shaver, không phải lúc nào nó cũng xảy ra như ta nghĩ. Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra khá nhiều yếu tố khác nhau góp phần vào sự phát triển hoặc thiếu hụt gắn bó an toàn, đặc biệt là sự đáp ứng của người mẹ với các nhu cầu của con trẻ trong suốt năm đầu đời. Những người mẹ không thường xuyên đáp ứng con trẻ hoặc những người hay làm gián đoạn hoạt động của con thường sẽ khiến đứa trẻ không dám khám phá thêm, khóc và lo lắng nhiều hơn. Những người mẹ thường xuyên bác bỏ hoặc ngó lơ nhu cầu của con thường bị trẻ xa lánh và tránh né tiếp xúc. While forming a secure attachment with caregivers is normal and expected, as Hazen and Shaver have noted, it doesn’t always happen. Researchers have found a number of different factors that contribute to the development or lack thereof of secure attachment, particularly a mother’s responsiveness to her infant’s needs during the first year of a child’s life. Mothers who respond inconsistently or who interfere with child’s activities tend to produce infants who explore less, cry more, and are more anxious. Mothers who consistently reject or ignore their infant’s needs tend to produce children who try to avoid contact. Đối với người trưởng thành, nhóm gắn bó an toàn thường có các mối quan hệ tin cậy và dài lâu. Các đặc tính khác của người gắn bó an toàn bao gồm có lòng tự trọng cao, có được các mối quan hệ thân thiết, tìm kiếm sự hỗ trợ từ những người khác và có khả năng chia sẻ cảm xúc của mình với người khác. As adults, those who are securely attached tend to have trusting, long-term relationships. Other key characteristics of securely attached individuals include having high self-esteem, enjoying intimate relationships, seeking out social support, and an ability to share feelings with other people. Trong một nghiên cứu khác, các nhà khoa học cũng phát hiện ra rằng phụ nữ thuộc kiểu gắn bó an toàn có nhiều cảm xúc tích cực về mối quan hệ yêu đương của mình hơn những người thuộc nhóm gắn bó bất an. In one study, researchers found that women with a secure attachment style had more positive feelings about their adult romantic relationships than other women with insecure attachment styles. Có bao nhiêu người tự xếp bản thân vào nhóm gắn bó an toàn? Trong một thí nghiệm cổ điển thực hiện bởi Hazen và Shaver, 56% tham dự viên cho rằng họ thuộc nhóm an toàn, 25% cho rằng họ thuộc nhóm trành né và 19% tự nhận mình thuộc nhóm nước đôi/lo âu. How many people classify themselves as securely attached? In a classic study by Hazen and Shaver, 56 percent of respondent identified themselves as secure, while 25 percent identified as avoidant and 19 percent as ambivalent/anxious. 5. Gắn bó nước đôi. Ambivalent Attachment Đặc tính của gắn bó nước đôi. Characteristics of Ambivalent Attachment Trẻ có gắn bó nước đôi có xu hướng hay nghi ngờ người lạ. Những đứa trẻ này cho thấy sự lo âu đáng kể khi bị chia tách khỏi cha mẹ hay người nuôi dưỡng, nhưng rồi vẫn không cảm thấy được yên lòng khi họ quay lại. Trong một vài trường hợp, đứa trẻ có thể chối bỏ cha mẹ một cách thụ động bằng cách không chịu để cha mẹ an ủi hoặc có thể thể hiện sự hung hăng trực tiếp lên cha mẹ chúng. Children who are ambivalently attached tend to be extremely suspicious of strangers. These children display considerable distress when separated from a parent or caregiver, but do not seem reassured or comforted by the return of the parent. In some cases, the child might passively reject the parent by refusing comfort, or may openly display direct aggression toward the parent. Theo Cassidy và Berlin, gắn bó nước đôi thường không phổ biến lắm, chỉ khoảng 7 đến 15% trẻ nhỏ tại Mỹ có biểu hiện của dạng gắn bó này. Trong bải tổng quan lý thuyết về gắn bó nước đôi, Cassidy và Berlin cũng phát hiện ra rằng luôn có một mối liên hệ giữa gắn bó bất an nước đôi và sự thiếu vằng tình mẫu tử. Khi những đứa trẻ này lớn lên, giáo viên thường mô tả chúng là những đứa hay đeo bám và quá lệ thuộc người khác. According to Cassidy and Berlin, ambivalent attachment is relatively uncommon, with only 7 to 15 percent of infants in the United States displaying this attachment style. In a review of ambivalent attachment literature, Cassidy and Berlin also found that observational research consistently links ambivalent insecure attachment to low maternal availability. As these children grow older, teachers often describe them as clingy and over-dependent. Ở người trưởng thành, những người có gắn bó nước đôi thường cảm thấy do dự trong việc gần gũi người khác và lo lắng rằng người đó sẽ không đáp lại tình cảm của họ. Điều này dẫn đến việc chia tay thường xuyên, bởi chính những người trong cuộc luôn cảm thấy lạnh lùng và xa cách. Những người này cảm thấy đặc biệt mất kiểm soát sau khi mối quan hệ kết thúc. Cassidy và Berlin mô tả một dạng thức tâm lý khác xuất hiện khi những người gắn bó nước đôi này bám lấy trẻ nhỏ như một nguồn động viên an toàn. As adults, those with an ambivalent attachment style often feel reluctant about becoming close to others and worry that their partner does not reciprocate their feelings. This leads to frequent breakups, often because the relationship feels cold and distant. These individuals feel especially distraught after the end of a relationship. Cassidy and Berlin described another pathological pattern where ambivalently attached adults cling to young children as a source of security. 6. Gắn bó tránh né. Avoidant Attachment Đặc trưng của Gắn bó tránh né. Characteristics of Avoidant Attachment Trẻ nhỏ thuộc nhóm gắn bó tránh né có xu hướng tránh né cha mẹ và người chăm sóc. Dạng tránh né này thường trở nên đặc biệt rõ ràng sau một khoảng thời gian vằng mặt người gắn bó. Những đứa trẻ này có thể không chối bỏ sự quan tâm chú ý từ cha mẹ nhưng cũng không tìm kiếm sự che chở an ủi hay tiếp xúc nào. Trẻ có gắn bó dạng tránh né không cho thấy chúng thích cha mẹ hơn một người xa lạ. Children with avoidant attachment styles tend to avoid parents and caregivers. This avoidance often becomes especially pronounced after a period of absence. These children might not reject attention from a parent, but neither do they seek our comfort or contact. Children with an avoidant attachment show no preference between a parent and a complete stranger. Ở người trưởng thành, những người có gắn bó tránh né thường gặp khó khăn trong các mối quan hệ tình cảm thân mật. Những người này không đầu tư nhiều cảm xúc vào các mối quan hệ và chỉ cảm thấy hơi không vui khi quan hệ chấm dứt. Họ thường tránh né sự tiếp xúc gần gũi hay thân thiết bằng cách kiếm cớ như phải làm việc trong thời gian dài, hoặc có thể mơ màng về một người khác trong lúc quan hệ. Nghiên cứu cho thấy những người thuộc nhóm gắn bó tránh né thường tỏ ra chấp nhận và dễ có các cuộc tình một đêm. Đặc tính phổ biến khác là thất bại trong việc hỗ trợ đối phương trong những lúc gian nan và gặp khó khăn trong việc chia sẻ cảm xúc, suy nghĩ và tình cảm với đối phương. As adults, those with an avoidant attachment tend to have difficulty with intimacy and close relationships. These individuals do not invest much emotion in relationships and experience little distress when a relationship ends. They often avoid intimacy by using excuses such as long work hours, or may fantasize about other people during sex. Research has also shown that adults with an avoidant attachment style are more accepting and likely to engage in casual sex. Other common characteristics include a failure to support partners during stressful times and an inability to share feelings, thoughts and emotions with partners. 7. Gắn bó hỗn độn. Disorganized Attachment Đặc tính của nhóm gắn bó hỗn độn. Characteristics of Disorganized Attachment Trẻ thuộc nhóm gắn bó hỗn độn thường thiếu các hành vi gắn bó rõ ràng. Hành động và phản ứng của chúng đối với người chăm sóc thường kết hợp nhiều hành vi, bao gồm cả tránh né và do dự. Những đứa trẻ này thường được mô tả là hay có biểu hiện ngạc nhiên, đôi lúc bị bối rối hoặc e sợ khi có mặt người chăm sóc. Children with a disorganized-insecure attachment style show a lack of clear attachment behavior. Their actions and responses to caregivers are often a mix of behaviors, including avoidance or resistance. These children are described as displaying dazed behavior, sometimes seeming either confused or apprehensive in the presence of a caregiver. Main và Solomon cho rằng hành vi không nhất quán ở một số cha mẹ có thể là yếu tố góp phần hình thành dạng gắn bó này. Trong các nghiên cứu sau này, Main và Hesse lại cho rằng cha mẹ những người lúc làm trẻ sợ, lúc lại an ủi trẻ cũng góp phần hình thành kiểu gắn bó này. Vì trẻ cảm thấy vừa an toàn vừa sợ hãi khi ở cạnh cha mẹ, kết quả là sự bối rối không biết phải đối mặt như thế nào. Main and Solomon proposed that inconsistent behavior on the part of parents might be a contributing factor in this style of attachment. In later research, Main and Hesse argued that parents who act as figures of both fear and reassurance to a child contribute to a disorganized attachment style. Because the child feels both comforted and frightened by the parent, confusion results. Nguồn Như Trang. Chú thích từ người dịch Thuyết gắn bó là một mảng của tâm lý học miêu tả bản chất của sự gắn bó về mặt cảm xúc giữa con người với nhau. Điều này bắt đầu khi chúng ta còn bé thơ cùng sự gắn bó với bố mẹ. Bản chất của sự gắn bó này và việc nó được ấp ủ, quan tâm như thế nào sẽ quyết định bản chất của sự gắn bó với người bạn đời của chúng ta trong cuộc sống sau này. Ở bài này tác giả phân tích các phong cách gắn bó trong công trình lập trình vô thức của bộ não – được thực hiện từ nhỏ tới lớn – đóng vai trò vô cùng quan trọng trong cách thức mỗi người vượt qua hay chật vật với những khó khăn trong công việc. Bài dưới đây trình bày về những ảnh hưởng từ “phong cách gắn bó” lên đời sống công sở của luôn biết làm sao để quản lý thời gian tốt hơn khi làm việc. Nhưng dường như có một động lực vô hình nào đó, khó kiểm soát nổi, khiến bạn làm ngược lại những điều bạn biết là biết là mình cần nói không khi sếp yêu cầu nhận một dự án mới, nhưng bạn lại nói vâng. Hoặc bạn biết rằng mình đã thức đến khuya để hoàn thiện báo cáo, vậy mà sếp chỉ buông một câu “tạm được”. Hoặc bạn bế tắc – muốn làm tốt hơn nhưng không chắc là nếu cố thì có tốt hơn không – nên rút cục bạn không làm gì như bạn bực bội với chính mình vì những hành động phi lý trên, có lẽ nguyên nhân sâu xa lại nằm ở quá trình lập trình trình vô thức của bộ não từ đó hình thành nên “phong cách gắn bó” của bạn. Phong cách này quyết định cách thức bạn nhận thức mối quan hệ với những người xung quanh, đặc biệt là trong tình huống có thể gây áp lực và căng thảo luận từ trước đến nay về phong cách gắn bó thường xoay quanh mối quan hệ giữa gia mẹ và con cái, hoặc giữa các cặp tình nhân. Tuy nhiên trong vai trò là coach về quản lý thời gian, tôi từng thấy nhiều cá nhân cũng có thể có những cách “gắn bó” khác nhau tại nơi làm việc. Dưới đây là cách thức nhận biết phong cách gắn bó của mình và từ đó quản lý thời gian tốt hãiĐây là phong cách trong đó người ta sợ rằng mình có thể làm người khác phiền lòng. Từ sự sợ hãi đó mà các kéo theo các hành vi gây kém hiệu quả. – ví dụ không dừng kiểm tra email để đảm bảo rằng mọi việc vẫn sao để biết bạn thuộc phong cách này?Nếu bạn làm việc theo phong cách gắn bó sợ hãi, bạn mắc phải hai trở ngại lớn về quản lý thời gian. Trở ngại thứ nhất là bạn mất tập trung mỗi khi bạn cảm nhận có một sự “đe dọa”. Bạn cảm nhận có những định kiến tiêu cực – email nào đó của khách hàng có nghĩa là anh ta không hài lòng hay việc sếp không ghi nhận nỗ lực của mình có nghĩa là sếp đang tìm người thay thế mình. Những suy nghĩ này có thể đúng, nhưng cũng có thể sai. Nhưng bộ não của bạn, vốn đang căng thẳng, lập tức đi đến những kết luận tiêu cực và khiến bạn mắc kẹt trong đó, không thể làm việc gì khác cho đến khi sự việc hay mối lo sợ đã được tháo ngại thứ hai là về thiết lập giới hạn, bạn sợ nói “không”.Có thể làm gì?Để cải thiện khả năng quản lý thời gian, bạn cần trấn an bộ não và thoát ra khỏi trạng thái chiến – hay – tiến fight-or-flight mỗi khi có sự cố trong công lược trấn an tốt nhất là tư duy tích cực và hỗ trợ từ đồng nghiệp. Có thể là những suy nghĩ như “hãy chờ xem chuyện gì sẽ xảy ra” hay “mọi việc rồi sẽ ổn”. Nếu bạn vẫn thấy căng thẳng, hãy tìm đến sự hỗ trợ từ ai đó để tháo gỡ hoàn toàn và có thể tiếp tục, có thể là cần giải quyết triệt để vấn đề với khách hàng hay đồng nghiệp, hoặc nói chuyện với một người nào đó giúp bạn thực sự sáng tỏ về những suy nghĩ của đối với việc thiết lập giới hạn, hãy bắt đầu từ những việc đơn giản như không check email sau khi rời văn phòng. Bạn không nhất thiết phải nói “Không, tối nay tôi không làm được”. Đơn giản là bạn không biết về việc đó cho đến tận ngày hôm néNgười có phong cách gắn bó kiểu tránh né trong công việc có xu hướng cho rằng họ thông minh còn người khác thì đần độn, hoặc ít nhất là không thông minh bằng họ. Họ chỉ tập trung làm điều họ muốn và không để ý đến người khác, kéo theo đó là xung đột và thiếu niềm tin. Sự thiếu niềm tin lại dẫn đến xu hướng muốn kiểm soát từng tí một và giám sát, mà từ đó lại càng khiến họ khó chịu, ảnh hưởng đến quan hệ và hiệu quả công sao để biết bạn thuộc phong cách này?Bạn trễ deadline và không làm những việc có ý nghĩa quan trọng với người với cá nhân bạn, bạn luôn làm việc trễ giờ. Thường là do bạn muốn làm một dự án đặc biệt thật tốt, hoặc bạn muốn làm xong những việc quan trọng trước tiên và sau đó có thể làm những việc thể làm gìĐể thay đổi, bạn cần bắt đầu bằng việc ghi nhận rằng mỗi người đều có lý riêng. Có thể bạn không đồng ý với trình tự ưu tiên công việc của đồng nghiệp, bạn có thể cho rằng mình giỏi hơn, hoặc thậm chí bạn cho rằng việc quan trọng với người kia thực ra thật là ngớ cần biết rằng bạn không thể thành công nếu người khác suốt ngày kè kè kiểm soát bạn. Và nếu làm việc với thời gian ít hơn, bạn sẽ có khoảng trống để lắng nghe, hiểu và giúp đỡ người khác. Để tạo được sự thay đổi này, bạn cần tích cực cải thiện các năng lực về trí tuệ cảm xúc, có thể ghi nhận rằng người khác có thể nghĩ khác mình nhưng chưa hẳn là họ sai, bạn cũng cần ghi nhận giá trị của việc cộng tác với đồng nghiệpTránh né – sợ hãi“Bế tắc” là từ đúng nhất để mô tả những người có phong cách này. Họ cũng có những mối lo âu giống kiểu phong cách sợ hãi và hơn nữa không tự tin vào bản thân. Nếu như có một email mang tính đe dọa, người có phong cách sợ hãy sẽ mở email ra, trả lời thật nhanh để đẩy nỗi sợ đó đi. Nhưng người có phong cách tránh né – sợ hãi sẽ thấy email, phát hoảng lên và không bao giờ dám mở nó ra. Việc không mở và đọc email này tạo ra một cơn khủng hoảng kép. Họ sợ hệ quả sẽ xảy đến mạnh đến mức mà họ không bao giờ biết rằng có thể email đó đơn giản là để thông báo hay là đầy những lời chỉ không tin vào chính bản thân, hay vào hệ thống nơi làm việc, do đó luôn thường trực suy nghĩ “cố gắng cũng để làm gì đâu?” trong công việc hàng sao để biết bạn thuộc phong cách nàyBạn thường cảm thấy quá tải, lo âu về mọi thứ và thấy mình gần như không thể kiểm soát nỗi lo âu này. và càng ngày càng tệ hơn bởi công viêc thì cứ chồng lên mãi. Bạn cố gắng thoát khỏi tình trạng này bằng cách vào mạng xã hội, sắp xếp lại bàn làm việc cho gọn gàng, và suy tính thật kỹ xem nên giải thích vì sao mình chưa hoàn thành công thể làm gì?Nếu bạn rơi vào trường hợp này, cần có một chiến lược hai nhánh. Nhánh một nhằm giảm bớt cơn sợ hãi. Hãy thử những chiến lược trấn an cho phong cách gắn bó sợ hãi đã nêu trên, như tư duy tích cực và hỗ trợ từ đồng nghiệp hoặc bạn đó bạn cần khởi động lại công việc cho đến khi hoàn thành. Hãy đặt ra vài mục tiêu. Có thể là hãy mở email mà bạn không dám đọc kia, hoặc mỗi ngày dành 15 phút cho một dự án mà bạn đã bỏ bẵng đi hàng tuần hay thậm chí lâu hơn thế. Những tiến triển nhỏ sẽ khiến bạn nhận ra bạn có thể làm được, bạn vẫn sống sót và thậm chí thành toànNgười có phong cách này đón nhận thách thức trong công việc, làm hết sức mình và giải quyết mọi việc dễ dàng. Họ làm việc chăm chỉ và không sợ phải nói không khi cần. Họ biết là họ có năng lực, họ tự tin rằng người khác sẽ cộng tác với sao để biết bạn thuộc phong cách nàyBạn quản lý thời gian một cách dễ dàng. Bạn không gặp trở ngại gì trong việc lên thứ tự ưu tiên công việc và yêu cầu hỗ trợ. Bạn có thể thiết lập các giới hạn một cách hợp lý, có thể đấu tranh khi cần và hiếm khi bạn hành động trong trạng thái sợ làm gìNếu bạn có phong cách này, bạn đang quản lý thời gian tốt, làm việc một cách hiệu quả và khá cân bằng. Hãy an tâm tiếp tục, thường xuyên hỏi ý kiến phản hồi xem có thể làm gì tốt hơn hay cần thay đổi. Nếu bạn quan sát thấy có gì đó bất thường, ví dụ như việc trao đổi với cấp trên có khó khăn, đừng chỉ đơn giản cho rằng “ Sếp lại lại căng thẳng rồi”. Hay vào đó, hãy chia sẻ với họ, ví dụ như “Tôi thấy rằng chúng ta không còn trao đổi thẳng thắn như trước kia. Không biết có điều gì tôi đã làm mà ảnh hưởng đến việc này hay không?”Mặc dù phong cách gắn bó không phải là lý do duy nhất ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý thời gian của bạn, nó vẫn là một yếu tố quan trọng, đặc biệt là nếu bạn nhận thấy mình đang làm những việc mà tự bạn cũng biết là không đúng. Khi nhìn nhận về phong cách gắn bó trong đời sống cá nhân, các phong cách có thể thay đổi theo hoàn cảnh. Ở một công việc hay trong một quan hệ với một người cụ thể, bạn thấy mình ở phong cách an toàn nhiều hơn, nhưng không phải như vậy trong các hoàn cảnh khác. Cho dù là thế nào, việc cải thiện hiệu quả quản lý thời gian bắt đầu với việc nhận định xem mình thuộc phong cách gắn bó nào và từng bước giải của Elizabeth Grace Saunders trên tờ The New York I. Giới thiệu về học thuyết gắn bó Học thuyết gắn bó xuất phát từ John Bowlby1982, ông là người quan tâm đến mặt tập tính học trên hành vi con người. Bowlby cho rằng khi được đặt trong môi trường không có sự giúp đỡ, trẻ nhũ nhi có khả năng đáp ứng cao để duy trì sự tiếp xúc gần gũi với người chăm sóc đầu đời, bằng cách gắn bó với người chăm sóc, trẻ nhỏ đảm bảo được an toàn, thức ăn và cuối cùng là sống còn. Vì thế mục đích được xác định của gắn bó là để duy trì sự gần gũi với người chăm sóc. Hành vi của trẻ được tổ chức xung quanh mục tiêu này và được thiết kế nhằm để làm gia tăng khả năng có thể xảy ra để mối quan hệ với người chăm sóc sẽ là một mối quan hệ khoẻ mạnh. Hệ thống gắn bó được hoạt hoá bởi sự khó chịu dưới dạng các nhu cầu bên trong như là đói hay các yếu tố gây stress bên ngoài như sự nguy hiểm. II. Các giai đoạn gắn bó Sự phát triển của gắn bó theo sau hàng loạt các giai đoạn có thể xác định được trong 3 năm đầu đời. Trẻ sơ sinh định hướng được và đáp ứng với người khác. + Khoảng 2 tuần tuổi, trẻ ưa thích giọng nói của con người hơn những âm thanh khác, khoảng 4 tuần tuổi trẻ thích giọng nói của mẹ hơn giọng nói của người khác. + Vào tháng thứ 2, giao tiếp mắt được thiết lập và tiền tố của gắn bó được thấy khi trẻ hướng về phía người chăm sóc và báo hiệu các nhu cầu của trẻ. + Trong giai đoạn kế tiếp, từ 3-6 tháng tuổi, trẻ bắt đầu biểu lộ và gợi lên sự vui thích trong tương tác con người thông qua nụ cười xã hội Social smile. Trong thực tế, người lớn thực hiện nhiều trò khôi hài để gợi lên nụ cười như thế, điều này cho thấy hành vi này có giá trị và đáp ứng như thế nào trong cuộc sống, nó đảm bảo không chỉ một sự gắn bó khoẻ mạnh hình thành mà còn là sự tương tác qua lại. + Giữa 6-9 tháng, trẻ gia tăng khả năng phân biệt được người chăm sóc trẻ và những người lớn khác và dành phần thưởng cho người đặc biệt này bằng “nụ cười ưu ái” . Cả hai vấn đề lo âu chia cách Separation anxiety và lo âu người lạ Stranger anxiety là tín hiệu cho thấy rằng trẻ có ý thức rằng người chăm sóc trẻ có một chức năng và giá trị độc nhất. + Từ 12-24 tháng tuổi, bò và bước đi cho phép trẻ điều chỉnh được sự gần gũi hoặc khoảng cách xa đối với người chăm sóc. Tìm kiếm gần gũi Proximity-seeking, cũng được xem như là hành vi có nền tảng an toàn, lúc đó trẻ quay về phía người chăm sóc để được thoải mái, trợ giúp, và đơn giản là để “ nạp thêm năng lượng cảm xúc”. + Khoảng 3 tuổi, mục tiêu của gắn bó được mở rộng ra ngoài sự an toàn và dễ chịu của trẻ và trở nên có tính qua lại hơn. Trong những năm tuổi mẫu giáo, gắn bó được hướng về phía thành lập một mối liên hệ đối tác có hướng đến mục tiêu, trong sự cộng tác này nhu cầu và cảm xúc của cả hai bên tham gia vào mối liên hệ được xem xét đến. III. Các kiểu gắn bó bó an toàn Trẻ có gắn bó an toàn có hướng khám phá môi trường một cách tự do và tương tác tốt với người lạ khi có sự hiện diện của người chăm sóc. Trẻ có thể bị khó chịu bởi chia cách và nếu có, trẻ sẽ phản đối và giới hạn lại việc khám phá môi trường khi người chăm sóc vắng mặt. Trong lúc gặp mặt lại, trẻ đón chào người chăm sóc một cách tích cực và tìm kiếm tiếp xúc với người này và sẵn sàng được dỗ dành, trẻ cũng có thể quay lại chơi sau một lúc được tái nạp năng lượng cảm xúc. Hành vi của người chăm sóc được ghi nhận bởi sự nhạy bén với nhu cầu của trẻ. Đặc biệt là người chăm sóc đọc được các tín hiệu của trẻ một cách chính xác và đáp ứng một cách nhanh chóng, phù hợp và với một cảm xúc tích cực. bó tránh né không an toàn Trong gắn bó tránh né, trẻ dường như độc lập một cách sớm hơn bình thường. Trẻ dường như không dựa vào người chăm sóc để có được sự an toàn khi người chăm sóc hiện diện , trẻ khám phá căn phòng rất độc lập và đáp ứng với người chăm sóc và người lạ như nhau. Trẻ đáp ứng rất ít đối với sự vắng mặt của người chăm sóc, đôi khi trẻ thậm chí không nhìn theo khi người chăm sóc rời khỏi. Trong lúc gặp mặt lại, những trẻ này tránh né sự gần gũi với người chăm sóc, trẻ có thể quay đi, tránh giao tiếp mắt, và phớt lờ người chăm sóc. Mặc dầu trẻ có vẻ thờ ơ nhưng khi đo lường các chỉ số sinh lý cho thấy trẻ thực ra có khó chịu. Hành vi của người chăm sóc được ghi nhận bằng sự xa cách và thiếu vắng sự dỗ dành đi kèm với khó chịu và giận dữ trong khi gần gũi. Người ta cho rằng né tránh là sự cố gắng của trẻ để đối mặt với nhu cầu của cha mẹ muốn cách xa bằng cách trẻ giữ đáp ứng thấp và kềm chế biểu lộ cảm xúc mà nó có thể gây ra sự từ chối của cha mẹ. bó chống đối không an toàn Ngược lại với trẻ né tránh,trẻ có gắn bó chống đối cũng được gọi là hai chiều bị bận rộn với người chăm sóc, trẻ có khuynh hướng bám dính vào và bị ức chế từ việc khám phá căn phòng hoặc từ việc tương tác với người lạ ngay cả khi có mặt của người chăm sóc. Trẻ dễ bị khó chịu khi chia cách, nhưng khi gặp mặt lại, trẻ cố gắng chống đối một cách giận dữ khi gần gũi và không dễ dỗ dành. Trẻ đáp ứng với mẹ bằng kiểu tìm kiếm gần gũi hai chiều và từ chối. Ví dụ, trẻ có thể đòi hỏi được bế ẵm rồi sau đó đẩy người chăm sóc ra xa một cách giận dữ hoặc trẻ có thể bám vào người chăm sóc nhưng lại ưỡn cong người ra ngoài và từ chối chấp nhận sự chăm sóc của mẹ. Hành vi của người chăm sóc được ghi nhận bằng khả năng không thể dự đoán được, đôi khi người chăm sóc gần gũi quá mức và lúc khác thì lại không liên quan với trẻ hay khó chịu. Chống đối được xem như là những cố gắng của trẻ nhằm để có được sự chú ý của người chăm sóc, trong khi đó giận dữ lại đến từ việc ấm ức về chăm sóc không tương hợp. 4. Gắn bó rối loạn tổ chức không an toàn Loại này mới được thêm vào sau này. Trẻ bị rối loạn tổ chức hoạt động theo một cách thức không tương hợp hay khác lạ. Những trẻ này có thể có một biểu lộ ngạc nhiên hay đi lang thang xung quanh không có mục đích hay sợ hãi và hai chiều trong sự hiện diện của người chăm sóc, không biết là trẻ tiếp cận với người chăm sóc để được dễ chịu hay tránh né để được an toàn. Nếu trẻ tìm kiếm sự gần gũi, trẻ làm như thế theo cách thức bóp méo như là tiếp cận với người chăm sóc ở phía sau hay bất thình lình lạnh lung và nhìn chằm chằm vào khoảng không. Không giống như trẻ nhỏ có gắn bó né tránh và chống đối, những trẻ này dường như không phát triển một chiến lược ổn định để tiếp xúc với người chăm sóc. Khoảng 5% trẻ trong dân số bình thường có biểu lộ kiểu gắn bó này. Hành vi của người chăm sóc được ghi nhận bằng cách sử dụng những tín hiệu nhầm lẫn như là dang tay ra trong khi lùi lại , người ta cũng quan sát thấy ở những người chăm sóc này đối xử theo cách thức khác lạ và sợ hãi. Vì thế, gắn bó rối loạn tổ chức cho thấy một một sự sụp đổ về chiến lược hệ thống trong việc đối diện với môi trường đe doạ và không tiên đoán được. Tên bài hát Thằng Bờm Ca sĩ Bé Bảo Khương Sáng tác Đỗ Lộc Album Bay Cùng Ánh Sao Ngày ra mắt 17/09/2014 Thể loại Việt Nam, Nhạc Thiếu NhiLời bài hát Thằng Bờm – Bé Bảo KhươngŢhằng bờm, thằng bờm có cái quạt mo Phú ông xin đổi bɑ bò là bò chín trâu. Ɓờm rằng bờm rằng bờm chẳng lấу trâu Phú ông xin đổi ɑo sâu là sâu cá mè Ąo sâu cá mè, một bè gỗ lim, con chim đồi mồi Ɓờm cũng chẳng đổi Ąo sâu cá mè, một bè gỗ lim, con chim đồi mồi Ɓờm cũng chẳng đổi Ϲhỉ đổi lấу xôi, chỉ đổi lấу xôi Ļấу xôi bờm cười. ” Ţhằng bờm có cái quạt mo Phú ông xin đổi bɑ bò chín trâu. Ɓờm rằng bờm chẳng lấу trâu Phú ông xin đổi ɑo sâu cá mè Ɓờm rằng bờm chẳng lấу mè Phú ông xin đổi một bè gỗ lim Ɓờm rằng bờm chả lấу lim Phú ông xin đổi con chim đồi mồi Ɓờm rằng bờm chẳng lấу mồi Phú ông xin đổi nắm xôi bờm cười

gắn bó hay gắng bó